Kiến
Thức Về Quả Cherry (Quả Anh Đào)
Cây
Cherry Ngọt (Sweet Cherries)
Cherry
có nguồn gốc từ vùng khí hậu ôn hòa Đông Âu và Tây Á, tại đây cây đã được trồng
ít nhất là từ năm 600 trước Tây lịch. Tuy cherry đã được trồng tại Ý vào thời
gian này, nhưng Tướng La Mả Lucullus (vốn là tay sành ăn nhậu) đã cho du nhập
thêm những giống mới vào khoảng năm 69 trước Tây lịch.. Tên ông đã trở thành đồng
nghĩa với việc cây đã từ Cerasus đến La Mã. Người Ai cập, Hy lạp và La Mã đều
ưa thích cherry vì hoa của cây khá đẹp và quả cũng khá ngon..
Trong
văn học Nhật có một truyện kể về cây Cherry :
‘Có
một võ sĩ Nhật đã trải qua thời gian niên thiếu tại Iyo, vui sống hàng ngày dưới
bóng yan cây cherry. Khi trưởng thành, phải xa gia đình và bạn hữu, chàng chỉ
còn một sự liên kết rất mật thiết với cây cherry mà chàng rất yêu thích.. Và một
mùa hè kia, cây cherry đã chết ! người chiến sĩ già xem sự kiện này như một điềm
báo, ông không nguôi được sự ưu buồn dù cho bên cạnh cây cherry cũ người ta đã
trồng một cây non để thay thế..Và mùa Đông năm đó, ông đã nói với cây cherry đã
chết cầu mong cây chỉ nở thêm một mùa hoa! Và nếu cây chấp nhận lời khẩn cẩu
thì ông sẽ hy sinh mạng sống của mình. Để thực hiện lời hứa, ông trải một mảnh
vải trắng trên mặt đất cạnh nơi cay cherry chết.. .và ông tự mỗ bụng chết
(hara-kiri).. Máu của ông thấm vào rễ cây, thần khí nhập vào yani nhựa.. để cây
cherry đã chết, vụt sống lại và nở hoa.. Mỗi năm vảo ngày Ông chết, tuy đất vẫn
còn băng cứng , các cây cỏ đang ngủ qua mùa Đông nhưng cây cherry tại Iyo vẫn nở
hoa..’
Cây
cherry có thể được xem là một cây ăn trái khá được ưa chuộng tại Hoa Kỳ, mỗi
năm có ngày lễ hội quốc gia (National Cherry Festival0, tổ chức vào tháng 7 tại
‘Thủ đô Cherry của Thế giới’ tại Traverse City Michigan. Hàng ngàn người từ khắp
nơi trên thế giới sẽ tụ về đây đễ mừng ngày hội và dĩ nhiên để ..ăn cherry..
Cherry
cũng đi vào văn chương dân gian Hoa Kỳ với truyện kể về George Washington đã
lén đốn bỏ cây cherry của Cha Ông và sau đó vì không dám nối dối..nên đành nhận
tội..
Ngày
nay tuy cherry được trồng tại nhiều nơi trên thế giới nhưng chỉ khoảng 20 quốc
gia là trồng nhiều đủ để thành sản phẩm thương mãi.Âu châu vẫn cung cấp phần lớn
cherry nhưng Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đứng hàng đầu với sản lượng
cherry ngọt hàng năm lên đến trên 156 ngàn tấn (85% do Washington, Oregon và
California); lượng cherry chua lên đến 100 ngàn tấn mỗi năm (75% trồng tại
Michigan).. Các tiểu bang khác trồng Cherry gồm Utah, Wisconsin, New York và
Pennsyl vania..
Tên
khoa học và các tên khác :
Prunus
avium thuộc họ thực vật Rosaceae
Cerise
(Pháp); Cerizas (Tây Ban Nha)
Đặc
tính thực vật :
Cây
thuộc loại thân mộc cao đến 10m, sống lâu năm. Hoa màu trắng, đôi khi hồng nhạt,
nở hàng năm cùng một thời điểm với cây đào. Lá giống lá mận, thuôn dài và mỏng
về phía ngọn. Quả có đường kính chừng 2.5 cm, tương đối tròn, màu đỏ, vàng hoặc
đen, có cuống dài thường mọc thành đôi và tập trung thành từng nhóm trên các
cành mang quả. Quả có thịt màu kem nhạt và vàng, tuy ngọt nhưng có thể hơi đắng
tuy nhiên khi yan thì mất hẳn vị chua. Cây không tự thụ phấn.
Cherry
ngọt thích hợp với vùng khí hậu ấm và khô. Gỗ cherry thuộc loại gỗ cứng, khá được
ưa chuộng để làm đồ gỗ cao cấp.
Cây
cherry ngọt hoang, nguồn gốc tại Âu châu, thường được gọi là bird cherry, gean
hay mazzard, không có giá trị nhiều về phương diện thương mãi, tuy nhiên vẫn được
dùng để chế biến rượu. Mazzard được các nhà vườn cải thiện khá nhiều, nay cho
quả màu đen, hương vị khá đậm , quã tương đối lớn hơn loài cây hoang, nếu để mọc
tự nhiên, có thể cao đến hơn 5.5 m. Quả từ các cây cherry ngọt loại gean hay
guigne mềm hơn, thịt hơi nhũn, và quả giống ‘bigarreau’ tương đối dòn.
Cherry
là một trong những loại trái cây mà các di dân từ Âu châu mang sang Châu Mỹ từ
thế kỷ 16. Sau đó các người nhập cư từ Pháp đã trồng cherry dọc theo bờ sông
Saint Lawrence xuống tận các vùng đất quanh khu Đại Hồ; cây cherry cũng trở
thành những cây chính trồng tại khu vườn nơi người Pháp định cư như tại
Detroit, Vincennes và các thành phố trong vùng Trung Hoa Kỳ.
Vào
thập niên 40 của thế kỷ 18, Mục sư Peter Dougherty, một nhà truyền giáo
Presbyterian, đã trồng vườn cây ăn trái cherry đầu tiên tại vùng Bắc Michigan
(đây là vùng có những điều kiện thổ nhưỡng tối ưu thích hợp với cây cherry)..
Tại
vùng Tây Bắc Hoa Kỳ, các vườn trồng cây cherry ăn trái phát triển rất mạnh. Năm
1847, Henderson Lewelling đã khởi đầu trồng cherry tại Tây Oregon, dùng các cây
‘con’ chở từ Iowa sang bằng xe bò.. Các vườn cây của Lewelling đã trở thành nổi
tiếng từ 1870.
Vài
chủng loại đáng chú ý :
Có
khá nhiều (khoảng trên 500) chủng cherry ngọt đã được lai tạo, tuy nhiên việc
thụ phấn tương đối khó khăn nên đa số nhà vườn chọn trồng khoảng 15 chủng có thể
thụ phấn nhân tạo :
Bing
là chủng cherry ngọt quan trọng nhất , tên được Lewelling dùng để ghi nhận công
sức của một thợ vườn người Trung Hoa: quả to, tròn màu đỏ xậm và vị ngon, quả đổi
sang màu đen khi hoàn toàn yan. Cây lớn tuy không ‘sai’ quả như chủng Angela’
nhưng hiện vẫn được xem là chủng tiêu chuẩn xét về vị ngọt của quả. Một chủng
khác Lambert cũng phát xuất từ Nông trại Lewelling, quả nhỏ hơn hình quả tim
Black
Tartarian cũng cho quả ngọt, thịt mềm và vị rất ngon.
Van
cho quả hình dạng giống Bing, nhưng cứng hơn và cuống ngắn hơn. Cây cho quả rất
sớm
Stella
là chủng đặc biệt, tự thụ phấn, cây có sức chịu đựng cao, cho quả ngọt, màu đỏ
xậm.
Rainier
cho quả màu vàng, vị ngọt nhẹ, là chủng lai tạo giữa các chủng Bing và Van do
TS Harold Fogle thực hiện tại ĐH Washington State University
Ba
chủng Bing, Lambert và Rainier chiếm khoảng 95 % tổng sản lượng Cherry ngọt thu
hoạch tại vùng Tây Bắc Hoa Kỳ
Thành
phần dinh dưỡng :
100
gram phần ăn được (bỏ hột) chứa :
-
Calories 72
-
Chất đạm 1.20 g
-
Chất béo 0.96 g
-
Chất sơ 0.40 g
-
Calcium 15 mg
-
Sắt 0.39 mg
-
Magnesium 11 mg
-
Phosphorus 19 mg
-
Potassium 224 mg
-
Kẽm 0.060 mg
-
Đồng 0.095 mg
-
Manganese 0.092 mg
-
Beta Carotene (A) 214 IU
-
Thiamine (B1) 0.050 mg
-
Riboflavine (B2) 0.060 mg
-
Niacin (B3) 0.400 mg
-
Pantothenic acid (B5) 0.127 mg
-
Pyridoxine (B6) 0.035 mg
-
Folic acid (B9) 4.2 mcg
-
Ascorbic acid 7 mg
Thành
phần hóa học :
Ngoài
thành phần dinh dưỡng kể trên, trong cherry ngọt còn có :
Quả
chứa :
-
Anthocyanidins như các chất chuyển hóa từ yaniding, peonidin.
-
Các acid loại hydroxycinnamic như chlorogenic acid, neochloro
genic
acid, và các chất chuyển hóa từ p-coumaric acid.
-
Các glucosides của quercetin, kaempferol và isorhamnetin..
-
Các triterpene loại ursolic và oleanolic acid.
-
Các alkanes : nonacosane và heptacosane
Xét
về phương diện dinh dưỡng , cherry ngọt (cả hai loại quả màu đỏ và mầu vàng)
màu càng đậm, vị càng ngọt, có thể ăn tươi. Quả rất dễ hư nên cần được giữ
trong tủ lạnh khi chưa dùng đến. Cần cẩn thận khi muốn lấy hột ra khỏi quả vì
nước ép từ quả có thể gây màu khó phai trên quần áo màu nhạt. Cherry ngọt phơi
hay xấy khô cũng được ưa chuộng. ‘Mùa’ thu hoạch cherry tương đối ngắn, thường
chỉ trong vòng 3 tháng : cherry loại Bing xuất hiện vào cuối tháng 5, cao điểm
trong các tháng 6 và 7, có thể còn có trong tháng 8 ; trong khi đó loại Lambert
xuất hiện vào giữa tháng 8. Cherry tươi trên thị trường tại Mỹ, sau tháng 8 thường
là cherry nhập vào Mỹ từ New Zealand.
Cherry
được xem là một trái cây ‘giải độc’, nhuận trường và kích thích hoạt động cơ thể.
Nên ăn để ‘thanh tẩy’ đường tiêu hóa : quả càng xậm càng tốt vì chứa nhiều sắt,
magnesium và silicon hơn. Phương thức đơn giản nhất là uống mỗi ngày 2-4 lần, mỗi
lần một thìa càphê nước ép cô đặc quả cherry, hòa trong 1 ly nước để giúp bớt
đi tiểu nhiều lần và trị được bị khó chịu, cảm giác nóng rát khi đi tiểu.
Các
nghiên cứu khoa học về Cherry ngọt :
Tiến
trình thay đổi thành phần hóa học và hoạt tính trong các giai đọạn yan của quả
: Quả cherry ngọt thay đổi qua nhiều giai đoạn ‘chín’ khi còn trên cây (chưa
hái). Nghiên cứu tại Phân khoa Sinh Học Ứng Dụng và Kỹ thuật Thực phẩm , ĐH
Miguel Hernandez (Tây Ban Nha) ghi nhận sự thay đổi màu nơi da của quả, sự tích
tụ glucose và fructose cùng tiến trình ‘mềm’ hóa khởi sự rất sớm tương ứng với
sự gia tăng khối lượng của quả. Đồng thời sự đổi màu của quả có liên hệ với sự
thay đổi của hàm lượng anthocyanins tổng cộng. Trong thời gian đầu của sự phát
triển, lượng Vitamin C, hoạt động chống oxy-hóa và lượng hợp chất phenolic tổng
cộng đều giảm bớt nhưng sau đó tăng rất nhanh vào giai đoạn quả đổi sang mầu xậm..
(Journal of Agrricultural and Food Chemistry Số 6-2005>
Hoạt
tính bảo vệ tế bào thần kinh của các hợp chất phenolic trong cherry ngọt : Lượng
hợp chất phenolic tổng cộng trong cherry ngọt (100 gram quả) vào khoảng 92.1 đến
146.8 mg (tính theo tương đương với gallic acid); lượng anthocyanidins tổng cộng
là 30.2-76.5 mg (tính theo yaniding-3-glucoside). Các hợp chất phenolic này có
khả năng bảo vệ các tế bào thần kinh (loại PC12) chống lại các phản ứng oxy-hóa
gây thương tổn cho tế bào. (Journal of Agricultural and Food Chemistry Số
53-2005) .
Cherry
ngọt và bệnh gout :
Nghiên
cứu tại ĐH California tại Davis, phân chất nước tiểu của 10 phụ nữ mạnh khoẻ,
ăn cherry ngọt loại Bing (280 gram) và nhịn ăn các thực phẩm khác qua đêm ghi
nhận có sự giảm hạ rõ rệt nồng độ urate trong huyết tương đồng thời cũng có sự
giảm các chỉ số báo hiệu tiến trình sưng như C-reactive protein (CRP) và nitric
oxide (NO). Kết quả này phối hợp với các thử nghiệm in-vitro khác xác định được
khả năng chống sưng và ngừa gout của cherry (Journal of Nutrition Số
133-2003)..
Các
anthocyanidin trong Cherry có tác dụng ức chế hoạt tính của men xanthine
oxydase, (men can thiệp vào tiến trình tạo acid uric trong cơ thể). Các thử
nghiệm lâm sàng ghi nhận dùng mỗi ngày khoảng 200 gram cherry tươi có tác dụng
rất hữu hiệu để làm giảm acid uric và ngừa được cơn khởi động của gout.
Dược
phẩm từ Cherry ngọt :
Tại
một số quốc gia Đông Âu như Hungary, trích tinh từ cuống Cherry ngọt đã được
dùng làm dươc phẩm bổ tim (cardiotonic) Tại Hungary : đặc chế Novicardine đã được
tiêu chuẩn hóa theo hàm lượng tính theo tương đương với
dihydtowogonine-7-O-glucoside. Các thử nghiệm trên tim thú vật đặt trong dung dịch
Locke ghi nhận Novicardine có tác dụng cải thiện lực co thắt của tim , tăng đến
20-25 % và không gây hiệu ứng trên nhịp đập của tim (Acta Pharmacologia
Hungarica Số 62-1992)
Cherry
và sức khỏe :
BS
Michael Murray, trong The Encyclopedia of Healing Food đã tóm lược các lợi điểm
của Cherry đối với sức khoẻ như sau :
‘..
Cherry, giống như các trái cây loại berry, là nguồn cung cấp các flavonoid khá
tốt, đặc biệt là các anthocyanidins và protoanthocyanidins : đây là các phân tử
flavonoid giúp tạo ra màu đỏ-tím của quả cherry. Nói chung quả cherry càng xậm,
dù thuộc loại ngọt hay chua, đều càng tốt cho sức khỏe vì chúng chứa lượng càng
cao flavonoids. Các flavonoids này có một số đặc tính hữu ích. Các nhà nghiên cứu
tại ĐH Michigan State University khi nghiên cứu về khả năng chống oxy hóa và ức
chế men cyclooxygenase dưới 2 dạng COX-1 và COX-2 (đây là các men liên hệ đến
tiến trình sưng viêm và tạo cảm giác đau) của các loại trái cây, kể cả cherry,
đã ghi nhận anthocyanidines trích từ cherry có khả năng ức chế cả COX-1 lẫn
COX-2. Trong số các trái cây được nghiên cứu, cherry chứa lượng anthocyanidins
cao nhất 26 mg/100 gram (khoảng 20 quả). Khả năng ức chế COX của cherry có thể
so sánh được với ibuprofen và naproxen, đồng thời khả năng chống oxy hóa còn
cao hơn Vitamin E.
Cherry
cũng có thể có một số hoạt tính bảo vệ cơ thể chống ung thư. Cũng trong các
nghiên cứu tại Michigan State University, 2 chất anthocyanidins trong cherry :
isoquerxitrin và quercetin đã được xác định là có khả năng chống sự tăng trưỡng
của các tế bào ung thư ruột già..’
Tài
liệu sử dụng :
-
Whole Foods Companion (Dianne Onstad)
-
The Encyclopedia of Healing Foods (Michael Murray)
-
The Oxford Companion to Food (Alan Davidson)
-
Vegetables, Herbs & Fruits : An Illustrated Encyclopedia (Flowerdew)
Nguồn
Y Dược Ngày Nay
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét